Trong đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi VND đợt 1/2019 Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHB) vừa công bố, các mức lãi suất đã lên tới 8,6%/năm, 8,7%/năm và 8,8%/năm, ứng với các kỳ hạn 18, 24 và 36 tháng.
Đợt phát hành trên trở nên đáng chú ý, vì lãi suất áp dụng của một ngân hàng thương mại đã chính thức vượt mức lãi suất trái phiếu mà một số doanh nghiệp lớn đang huy động trên thị trường.
Cập nhật đến cuối tháng 3/2019, qua giới thiệu của đầu mối chào bán là Công ty Chứng khoán Techcom Securities (TCBS), ba tập đoàn lớn gồm Novaland, Vingroup và Masan Group đang có các loại trái phiếu, tập trung ở các kỳ hạn dài để huy động vốn.
Trái phiếu của nhóm các tập đoàn này tạo một dòng chảy trở nên quen thuộc trên thị trường khoảng bốn năm trở lại đây, và ngày một mạnh về sức thu hút nhà đầu tư tổ chức và cá nhân tham gia.
Một trong những yếu tố để dòng chảy này sống khỏe nằm ở chênh lệch lãi suất. Lãi suất trái phiếu của Novaland, Vingroup và Masan Group thường cao hơn lãi suất huy động các ngân hàng thương mại từ 1,35% - 2,15%, trong tương quan khá gần các kỳ hạn.
Tuy nhiên, như trên, với đợt phát hành chứng chỉ tiền gửi của SHB, hiện tượng mới đã xuất hiện: lãi suất tiền gửi ngân hàng đã cao hơn hẳn so với lãi suất trái phiếu của những doanh nghiệp đầu ngành nói trên.
Cụ thể, ở các trái phiếu kỳ hạn 16 và 21 tháng đang có của Vingroup, theo giới thiệu của TCBS, lãi suất áp dụng 8,61% và 8,4%/năm; trái phiếu kỳ hạn 14 tháng của Masan Group chỉ 7,88%/năm. Trong khi lãi suất chứng chỉ tiền gửi SHB có từ 8,6% - 8,8%/năm, có khác biệt không lớn về độ dài kỳ hạn.
Chứng chỉ tiền gửi của SHB không phải cá biệt. Hiện tượng lãi suất tiền gửi ngân hàng cao hơn lãi suất trái phiếu doanh nghiệp cũng thể hiện ở một số ngân hàng thương mại khác thời gian gần đây.
Như tại Ngân hàng Sài Gòn (SCB), cũng ở các kỳ hạn dài từ 13 - 36 tháng, ở biểu lãi suất cho một sản phẩm huy động áp dụng từ 7/3/2019, lãi suất cũng đã 8,55%/năm, cao hơn hẳn so với lãi suất trái phiếu Vingroup và Masan Group các kỳ hạn dài.
Hay ở Ngân hàng Bản Việt (Viet Capital Bank), lãi suất huy động VND các kỳ hạn dài trên 18 tháng đều đã ở mức 8,6%/năm…
Trên thị trường Việt Nam, đặc thù và truyền thống hàng chục năm qua cho đến nay người gửi tiền chủ yếu chọn gửi tại các ngân hàng thương mại. Đây cũng là kênh có độ an toàn thường được “mặc định” cao hơn gửi vào trái phiếu doanh nghiệp. Phía sau các ngân hàng thương mại có sự giám sát an toàn hoạt động từ Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ và Bảo hiểm Tiền gửi.
Trong khi đó, trái phiếu doanh nghiệp đối với khách hàng cá nhân gửi tiền tìm đến để đầu tư vẫn còn khá mới mẻ, thường có độ rủi ro cao hơn và thường không có tài sản đảm bảo.
Với khác biệt đó, lãi suất trái phiếu doanh nghiệp thường cao hơn hẳn so với lãi suất tiền gửi tại các ngân hàng thương mại.
Nhưng với hiện tượng trên, thị trường đã xuất hiện thực tế lãi suất tiền gửi của ngân hàng thương mại cao hơn lãi suất trái phiếu doanh nghiệp, và chênh lệch này đang mở rộng với đại chúng người gửi tiền.
Hiện tượng này một mặt phản ánh áp lực cạnh tranh huy động vốn trong hệ thống ngân hàng Việt Nam đang lớn lên, cũng như áp lực trong cân đối cơ cấu nguồn cục bộ; mặt khác cũng tạo áp lực so sánh cạnh tranh gọi vốn và chi phí gọi vốn đối với những doanh nghiệp đang bước đầu chủ động tự tìm nguồn nói trên thay vì lệ thuộc vào tín dụng ngân hàng.
Và cùng với những yếu tố khác, hiện tượng này góp thêm vào thực tế cho thấy lãi suất VND vẫn khó giảm trong ngắn hạn.